Sự nghiệp âm nhạc Paul_McCartney

The Quarrymen

Paul gặp John Lennon và ban nhạc The Quarrymen lần đầu tại nhà thờ St. Peter ngày 6 tháng 6 năm 1957 khi cậu mới 15 tuổi[30]. Cậu nhanh chóng gia nhập nhóm sau đó, tạo nên một tình bạn - tình đồng nghiệp vĩ đại với Lennon, để sau này trở thành bộ đôi sáng tác xuất chúng nhất thế kỷ XX[31]. The Quarrymen bấy giờ chơi một thứ âm nhạc trộn lẫn giữa rock and roll và skiffle (một thể loại nhạc nhẹ chịu ảnh hưởng của jazz, bluesfolk). McCartney gia nhập ban nhạc với tư cách là lead guitar của nhóm vì lúc đó chỉ có mình Paul là biết chơi guitar bài bản nhất, còn John Lennon chơi guitar theo cách chơi đàn banjo do mẹ là bà Julia chỉ cho. Sau này Paul đã dạy cho John các thế bấm hợp âm trên đàn guitar qua một tấm gương vì Paul là người thuận tay trái[32]. George Harrison sau đó vào nhóm vào năm 1958 và người bạn của Lennon ở trường nghệ thuật, Stuart Sutcliffe làm tay guitar bass của ban nhạc[33]. Họ đổi tên rất nhiều lần, trong đó có "Johnny and the Moondogs" và "The Silver Beetles", trước khi quyết định lấy tên "The Beatles" vào giữa tháng 8 năm 1960 và tuyển Pete Best làm tay trống cho nhóm trong chuyến lưu diễn đầu tiên tại Hamburg, Đức[34]. Paul sử dụng tên lót để làm tên chính thức vì không muốn trùng với tên của cha mình, ông James McCartney[32].

The Beatles

The Beatles trong thời kỳ Beatlemania

Sau chuyến đi Hamburg, ban nhạc nhờ Allan Williams đã có được suất diễn đều đặn tại Cavern Club[35][b]. Năm 1961, Sutcliffe rời nhóm, và McCartney bất đắc dĩ trở thành tay bass của ban nhạc[36]. Một vài thành công từ chuyến lưu diễn tại Hamburg đã tới tai của Brian Epstein, một doanh nhân trẻ người Do Thái ở Liverpool, và anh quyết tâm làm nhà quản lý nhóm vào đầu năm 1962[37]. Tháng 5 cùng năm, Epstein đã thương lượng thành công với Parlophone để ban nhạc có được hợp đồng thu âm đầu tiên[38]. Tới tháng 8, ban nhạc sa thải Pete Best và chọn Ringo Starr làm người thay thế. Thời kỳ Beatlemania bắt đầu, đưa tên tuổi The Beatles ra toàn thế giới[39]. Vào thời điểm đó, McCartney được gọi là "the cute Beatle"[40][c][d]. Năm 1965, The Beatles được phong tước Thành viên của Hoàng gia Anh (MBE)[41].

McCartney là người tìm tòi và liên hệ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng tới cộng tác với ban nhạc, trong đó có Dick James, John Cage, Mary Hopkin[32],... Năm 1966, ban nhạc thành lập công ty thu âm riêng có tên là Apple sau khi kết thúc gần 1.400 tour diễn vòng quanh thế giới suốt từ năm 1962.

The Beatles tiếp tục quãng thời gian phòng thu với những thành công vang dội từ Revolver (1966), Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band (1967), Album trắng (1968) và Abbey Road (1969). Cho tới năm 1970, họ đã phát hành ở Anh 12 album phòng thu và 22 đĩa đơn, trong đó 18 đứng số 1 tại bảng xếp hạng. Ban nhạc cũng đứng đầu Billboard Hot 100 20 lần, cùng với đó là 14 album số 1. Những ca khúc nổi tiếng nhất của McCartney có thể kể tới "Can't Buy Me Love" (1964), "Yesterday" (1965), "Paperback Writer" và "Eleanor Rigby" (1966), "Hello, Goodbye" (1967), "Hey Jude" (1968), "Get Back" (1969), "Let It Be" và "The Long and Winding Road" (1970)[42].

Tháng 3 năm 1969, anh cưới Linda Eastman, người mà anh gặp từ tháng 5 năm 1967. Tháng 8 năm 1969, họ sinh con gái đầu lòng Mary, đặt theo tên mẹ của Paul[43]. Tháng 10 năm 1969, Paul đối mặt với một tin đồn kỳ quặc rằng anh đã chết được vài năm vì tai nạn ô tô, tới mức đích thân anh phải lên tạp chí Life để thanh minh với độc giả[44].

Năm 1970, trước những đối đầu với các thành viên khác, McCartney tuyên bố giải tán ban nhạc vào ngày 10 tháng 4. Về mặt pháp lý, ban nhạc chính thức tan rã vào ngày 31 tháng 12 năm 1970. Tuy nhiên, một số vấn đề pháp lý vẫn kéo dài, và tai tiếng nhất là vụ việc bố và anh vợ của McCartney cùng với quản lý Allen Klein đã biển thủ một số lượng lớn công quỹ. The Beatles đã phải ra tòa vào ngày 9 tháng 1 năm 1975 để giải quyết những tranh chấp liên quan tới EMI, Klein và mỗi thành viên. Vụ việc chỉ kết thúc vào năm 1989[45][e][f].

Những năm 70: Wings

Bài chi tiết: Wings
"Tôi chưa hề muốn trở thành một nghệ sĩ solo... và thật hiển nhiên là tôi cần một ban nhạc... Tôi và Linda đã bàn bạc và điều đó tới như kiểu "Phải, nhưng đừng tạo nên một siêu ban nhạc, chỉ cần một nhóm cơ bản là được rồi"".[46]

~ McCartney

Sau khi The Beatles tan rã năm 1970, Paul bắt đầu một sự nghiệp khác của mình. Anh phát hành album solo đầu tay McCartney, trong đó có ca khúc "Maybe I'm Amazed" sáng tác cho Linda. Theo Bill Harry, ngoài Linda, chỉ có một mình Paul McCartney đã chơi tất cả các nhạc cụ rồi thực hiện album[47][g]. Năm 1971, McCartney và vợ tiếp tục cho ra album Ram thành công với vị trí số 1 tại Anh sau đó[48]. Họ tiếp nhận tay guitar Denny Laine cùng tay trống Denny Seiwell tới cộng tác, từ đó lập ra ban nhạc Wings. Album đầu tay của họ, Wild Life ra mắt vào tháng 12 cùng năm. Paul nói về Wings: "Wings luôn là một ý tưởng khó khăn... mọi ban nhạc kể từ [The Beatles] luôn phải nỗ lực hết mình... Tôi thấy mình có đủ khả năng. Đó là sự lựa chọn giữa một bên là tiếp tục, còn một bên là kết thúc sự nghiệp. Nhưng tôi lại yêu âm nhạc tới mức chưa bao giờ muốn dừng lại."[h]

Tháng 9 năm 1971, gia đình McCartney có thêm cô con gái thứ hai, Stella, đặt theo tên bà ngoại của Linda[49].

Paul McCartney trong một buổi trình diễn của Wings năm 1976

Năm 1973, McCartney viết ca khúc quán quân đầu tiên cho Wings, "My Love", cùng với đó là bản LP cho album Red Rose Speedway. Anh cộng tác với phụ trách cũ của The Beatles, George Martin thực hiện phần nhạc cho serie James Bond với ca khúc nổi tiếng "Live and Let Die" (Grammy và đề cử Oscar cho nhạc phim xuất sắc nhất cho Martin)[50]. Năm 1975, McCartney viết "Band on the Run" cùng với đó ra mắt album cùng tên. Đây là một album vô cùng thành công và là album đầu tiên của Wings đạt chứng chỉ Bạch kim[51]. Họ có thêm những album đứng đầu các bảng xếp hạng sau đó, bao gồm Venus and Mars (1975) và Wings at the Speed of Sound (1976)[52]. Tháng 9 năm 1977, McCartney đón chào người con thứ ba có tên là James và tới tháng 11, anh cho ra mắt "Mull of Kintyre" – ca khúc bán chạy nhất lịch sử âm nhạc Anh[53]. Anh cũng phát hành Thrillington, bản hòa âm của Ram theo ý tưởng của Percy "Thrills" Thrillington và phần bìa được thiết kế bởi Hipgnosis[54].

Khi London Town (1978) và Back to the Egg (1979) nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ dư luận, số thành viên cộng tác với Wings và McCartney đã là rất lớn, trong số đó có thể kể tới Pete Townshend, David Gilmour, Gary Brooker, John Paul Jones, và John Bonham[55]. Tính tới năm 1981, Wings đã có 7 album phòng thu, trong số đó 5 từng đứng đầu các bảng xếp hạng ở Mỹ[56], nhất là album Wings over America[57] – album trực tiếp hiếm hoi giành được thứ hạng cao tại Mỹ[58]. Họ cũng có 6 đĩa đơn số 1 tại đây, trong đó có "Listen to What the Man Said", "Silly Love Songs, "With a Little Luck", và "Coming Up"[59].

Trong suốt một thời gian dài, McCartney đã từ chối trình diễn những ca khúc nổi tiếng của mình thời The Beatles khi biểu diễn chung với nhóm Wings. Cho đến cuối thập niên 70, anh mới hát lại những ca khúc hit thời Beatles[32].

Năm 1981, McCartney tuyên bố cảm thấy hết hứng thú với Wings và muốn thay đổi. Họ tuyên bố tan rã vào tháng 4 sau những tranh cãi liên miên về tiền lương và thu nhập[60][i][j].

1982-1989

Năm 1980, anh cho ra album solo thứ 2, McCartney II. Cũng giống album đầu tiên, Paul vẫn một tay sáng tác và chơi tất cả các nhạc cụ. Album bao gồm một số ca khúc nổi tiếng như "Coming Up", "Waterfalls" và "Temporary Secretary"[61]. Năm 1982, McCartney hợp tác với Stevie Wonder trong ca khúc hit sản xuất bởi George Martin, "Ebony and Ivory", sau này nằm trong album Tug of War của anh. Sau đó anh còn hợp tác với Michael Jackson trong ca khúc "The Girl Is Mine" nằm trong Thriller[62][k]. Năm tiếp theo, họ thực hiện ca khúc đình đám của Jackson "Say Say Say", còn McCartney có được ca khúc solo đầu tiên đứng đầu tại Anh, "Pipes of Peace"[63][l].

Năm 1984, anh viết kịch bản, sản xuất và đóng phim Give My Regards to Broad Street. Roger Ebert chỉ dành cho bộ phim duy nhất 1 sao trên 5 và viết "bạn có thể bỏ qua nội dung để quan tâm duy nhất tới phần nhạc phim thôi"[64]. Album soundtrack này cũng có được vị trí số 1 tại UK Albums Chart với hit "No More Lonely Nights" lead guitar bởi Gilmour[65].

Anh hợp tác với Eric Stewart trong Press to Play (1986) khi cùng viết tới một nửa số ca khúc trong album đó. Năm 1988, Paul phát hành Снова в СССР, một album có nhan đề tiếng Nga bao gồm 18 ca khúc nhạc "oldies" mà anh thu âm chỉ trong 2 ngày[66]. Năm 1989, McCartney ra mắt Flowers in the Dirt hợp tác cùng Elvis Costello, David GilmourNicky Hopkins[67].

1990-2000

Năm 1990, McCartney cho đĩa LP Tripping the Live Fantastic lấy từ The Paul McCartney World Tour, chuyến lưu diễn đầu tiên của ông trong thập kỷ. Trong những năm sau, Paul thử sức với nhạc cổ điển cùng dàn nhạc Hoàng gia thành phố Liverpool[68]. Ông hợp tác với Carl Lewis để phát hành Liverpool Oratorio, với sự tham gia của Dame Kiri Te Kanawa, Sally Burgess, Jerry Hadley, Willard White, dàn nhạc Hoàng gia và dàn hợp ca thành phố Liverpool[69]. Năm 1990, Paul McCartney được ghi danh vào Sách Kỷ lục Guinness với danh hiệu buổi trình diễn trực tiếp có số lượng người tham dự đông nhất của một nghệ sĩ solo. Buổi diễn ngày 21 tháng 4 năm 1990 của ông ở Rio De Janeiro, Brasil đã bán được 184.000 vé[32].

Trong những năm 90, ông còn 2 lần hợp tác với Martin Glove của Killing Joke tạo nên The Fireman và ra mắt các album nhạc điện tử Strawberries Oceans Ships Forest (1993) và Rushes (1998)[70]. Ngoài ra, họ còn có album Off the Ground (1993) từ tour diễn The New World Tour, rồi sau đó là album Paul Is Live[71]. Năm 1994, Paul tạm thời bỏ sự nghiệp solo để cùng George Harrison, Ringo Starr, và đội ngũ của George Martin thực hiện dự án The Beatles Anthology, gồm các cảnh quay và những bản thu âm trực tiếp các bài hát của ban nhạc. Ông cũng tham gia vào chương trình radio "Oobu Joobu" năm 1995[72], dự án truyền hình Westwood One. Cùng năm, Thái tử Charles trao tặng ông tấm bằng danh dự của Học viện Âm nhạc Hoàng gia Anh[73]. Tháng 3 năm 1997, McCartney được phong tước MBE lần thứ 2[74].

Năm 1997, ông trở lại với rock trong Flaming Pie, rồi lại là nhạc cổ điển với Standing Stone[75]. Run Devil Run (1999) với sự tham gia của Ian Paice và Gilmour là album McCartney tâm huyết thực hiện cùng những tâm sức cuối cùng của Linda, người đã qua đời vào tháng 4 năm 1998 sau 17 tháng chống chọi với ung thư[76]. Với Linda, McCartney đã viết "Nova" rồi sau đó là album A Garland for Linda (2000)[77]. Năm 1999, ông tiếp tục với nhạc cổ điển trong Working Classical, cùng lúc đó ông được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll[78]. Tháng 5 năm 2000, ông được mời vào Hiệp hội nhạc sĩ và tác giả Anh, và tới tháng 6, ông phát hành Liverpool Sound Collage cùng Super Furry Animals và Youth, sử dụng những âm thanh và hiệu ứng mà ông yêu thích từ những năm 60[79].

2001-nay

Paul McCartney trình diễn tại Dublin năm 2010

Năm 2001, McCartney cho phát hành album acoustic duy nhất có tên Unplugged (The Official Bootleg)[80]. Trước thảm họa 11 tháng 9 năm 2001, ông đã đứng ra tổ chức chương trình tưởng niệm The Concert for New York City, cùng với đó là việc ra mắt album Diving Rain có ca khúc "Freedom" liên quan tới sự kiện trên[81]. Trong tour diễn sau đó, ông cũng phát hành album Back in the U.S. (còn có tên khác là Back in the World)[82]. Tháng 11 năm 2002, để kỉ niệm 1 năm ngày mất của Harrison, McCartney đã đứng ra tổ chức Concert for George vô cùng thành công[83]. Ông cũng biểu diễn tại một số trận chung kết Super Bowl của giải National Football League, Mỹ[84][85].

Năm 2005, Paul tiếp tục ra album Chaos and Creation in the Backyard, rồi sau đó Twin Freaks[86]. Năm 2006, đó là Ecce Cor Meum, năm 2007, Memory Almost Full và năm 2008[n], Electric Arguments. Năm 2008, ông nhiệt tình tham gia buổi hòa nhạc nhân dịp Liverpool được công nhận là thủ đô Văn hóa châu Âu[87]. Năm 2010, McCartney được tổng thống Mỹ Barack Obama trao giải thưởng Gershwin cho những đóng góp quan trọng tới nền âm nhạc đại chúng[88].

McCartney là một nghệ sĩ vô cùng bận rộn với các tour diễn. Năm 2004, khi biểu diễn tại Cung điện Mùa đôngSt. Petersburg, Nga, Paul đã từng chi tới 36.000$ để thuê ba chiếc phản lực rải nước đá khô lên những đám mây nhằm ngăn chặn cơn mưa[32]. Năm 2009, ông làm show tại Citi Field ở Queens, New York sau đó là album live Good Evening New York City[89]. Năm 2010, ông mở Consol Energy CenterPittsburgh, Pennsylvania[90]. Năm 2011, ông có buổi trình diễn tại Sân vận động Yankee, kèm với đó là ca khúc cổ điển "Ocean's Kingdom". Từ năm 2001, theo tour của ông bao gồm guitar Rusty Anderson và Brian Ray, Paul "Wix" Wickens chơi keyboards và tay trống Abe Laboriel, Jr. Trong album tri ân ra mắt vào năm 2012, Kisses on the Bottom[91], rất nhiều nghệ sĩ như Kiss, Garth Brooks, Billy Joel, Brian Wilson, Willie Nelson, Steve Miller, B.B. King[92] đã hát lại các ca khúc nổi tiếng của McCartney. Tháng 2 năm 2012, ông được MusiCares chọn là nhân vật của năm[93].

Năm 2012 là một năm bận rộn của Paul. Trong 2 buổi diễn ở Mexico City, ông đã chơi trước tổng cộng 100.000 người hâm mộ, thu về khoảng 6 triệu $. Tháng 6, ông trình diễn tại Diamond Jubilee Concert của nữ hoàng Elizabeth với 2 ca khúc "Let It Be" và "Live and Let Die"[94]. Ngày 27 tháng 7, Paul chính là người kết thúc Lễ khai mạc của Olympics Luân Đôn 2012 với ca khúc kinh điển "Hey Jude"[95]. Ông cũng là một trong những người ủng hộ tích cực cho Ủy ban Olympics của nước Anh với phần đóng góp lên tới 1 triệu $[96].